Nghị định này thay thế Nghị định 86/2015/NĐ-CP.
Năm nay chưa tăng học phí
Theo đó, mức trần học phí năm học 2021 - 2022 đối với các ngành đào tạo của các trường đại học công lập được áp dụng bằng mức trần học phí của năm học 2020 – 2021.
Cụ thể, mức trần học phí đối với các khối ngành đào tạo trình độ đại học tại các trường công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư được theo thành 7 khối ngành tương ứng với từng mức học phí. Trong đó, mức học phí cao nhất mỗi tháng là 1,43 triệu đồng/sinh viên là các khối ngành sức khỏe khác và Y dược.
![]() |
Mức học phí của các trường đại học công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư |
Mức trần học phí đối với các khối ngành đào tạo trình độ đại học tại các trường đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư cũng chia theo 7 khối ngành. Trong đó, học phí cao nhất cũng là các khối ngành sức khỏe khác và Y Dược với mức học phí mỗi tháng 5,05 triệu đồng/sinh viên.
![]() |
Mức học phí các trường đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư |
Mức trần học phí của các trường đại học công lập chưa tự bảo đảm chi thường xuyên năm học 2022 - 2023 đến năm học 2025 - 2026 tăng mỗi năm trên dưới 200 nghìn đồng.
![]() |
Mức học phí các trường đại học công lập các năm sau |
Các trường đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên có mức học phí được xác định tối đa bằng 2 lần mức trần học phí nêu trên tương ứng với từng khối ngành và từng năm học.
Các trường đại học công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư có mức học phí được xác định tối đa bằng 2,5 lần mức trần học phí nêu trên tương ứng với từng khối ngành và từng năm học.
Đối với chương trình đào tạo của cơ sở giáo dục đại học công lập đạt mức kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định hoặc đạt mức kiểm định chất lượng chương trình đào tạo theo tiêu chuẩn nước ngoài hoặc tương đương, trường đại học được tự xác định mức thu học phí của chương trình đó.
Mức học phí này phải dựa trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật do cơ sở giáo dục ban hành, thực hiện công khai giải trình với người học, xã hội.
Học phí thạc sĩ, tiến sĩ
Mức trần học phí đối với đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ của các trường đại học công lập được xác định bằng mức trần học phí nêu trên nhân hệ số 1,5 đối với đào tạo thạc sĩ, nhân hệ số 2,5 đối với đào tạo tiến sĩ tương ứng với từng khối ngành đào tạo của từng năm học theo các mức độ tự chủ.
Mức học phí đào tạo hình thức vừa làm vừa học; đào tạo từ xa được xác định trên cơ sở chi phí hợp lý thực tế với mức thu không vượt quá 150% mức thu học phí so với hệ đào tạo chính quy tương ứng.
Trường hợp học trực tuyến (học online), trường đại học xác định mức thu học phí trên cơ sở chi phí phát sinh thực tế hợp lý, tối đa bằng mức học phí tương ứng từng khối ngành theo mức độ tự chủ.
Mức học phí đối với các chương trình giáo dục thường xuyên; dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn cấp chứng chỉ, chứng nhận phù hợp với ngành, lĩnh vực đào tạo của mỗi cơ sở theo quy định của pháp luật được các cơ sở giáo dục chủ động tính toán, quy định mức thu theo sự đồng thuận giữa người học và cơ sở giáo dục, bảo đảm tính công khai, minh bạch và giải trình với người học, xã hội.
Mức học phí đối với các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn khác được áp dụng thu theo sự thỏa thuận chi phí giữa cơ sở giáo dục và người học.
Học phí đào tạo đại học tính theo tín chỉ, mô-đun được xác định căn cứ vào tổng thu học phí của toàn khóa học theo nhóm ngành, nghề đào tạo và tổng số tín chỉ, mô-đun toàn khóa theo công thức:
![]() |
Tổng học phí toàn khóa = mức thu học phí 1sinh viên/1tháng x 10 tháng x số năm học, bảo đảm nguyên tắc tổng học phí theo tín chỉ của chương trình đào tạo tối đa bằng tổng học phí tính theo niên chế.
Trường hợp học quá thời hạn quy định của chương trình đào tạo, học phí tín chỉ áp dụng từ thời điểm quá hạn được xác định lại trên cơ sở thời gian học thực tế trên nguyên tắc bù đắp chi phí và thực hiện công khai, giải trình với người học.
Trường hợp đào tạo bằng tốt nghiệp thứ 2 trình độ đại học, người đóng học phí của các tín chỉ thực học theo chương trình đào tạo.
Các trường đại học công lập được quy định mức học phí đối với các trường hợp học lại tối đa không vượt quá mức trần học phí nêu trên phù hợp với từng loại hình đơn vị. Trường hợp tổ chức học riêng theo nhu cầu người học thì mức thu theo thỏa thuận giữa người học và cơ sở giáo dục đại học công lập trên cơ sở bù đắp đủ chi phí.
Sinh viên đại học, học viên cao học, nghiên cứu sinh là người nước ngoài đang theo học tại các trường đại học công lập nộp học phí theo mức thu do trường quy định hoặc theo hiệp định, thỏa thuận hợp tác với bên nước ngoài.
Các mức học phí này được tính từ ngày 15/10/2021.
Thu Hằng
Đây là một trong những nội dung tại Nghị định số 81 quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập.
" alt=""/>Học phí đại học công lập từ 9,8Vợ muốn ly hôn để trốn nghĩa vụ trả nợ chung
Không đòi được đất, cha mẹ muốn kiện con ra tòa
![]() |
Ảnh minh họa |
Tin nhắn bị coi là đe dọa giết người khi nội dung thể hiện việc sẽ tước đoạt tính mạng của người nhận tin hoặc người thân thích của họ. Nội dung tin nhắn có thể không đề cập đến cách thức sẽ giết người như thế nào hoặc được mô tả cụ thể như sẽ đốt nhà, gây tai nạn giao thông, bắn, đâm… song làm người bị đe dọa lo sợ rằng việc này sẽ được thực hiện.
Theo Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 tại Khoản 1 Điều 133 Tội đe dọa giết người: Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Mặt chủ quan của tội phạm: Chủ thể thực hiện hành vi với lỗi cố ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp). Tức là biết rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây tổn hại đến tinh thần của người bị hại nhưng vẫn cố tình thực hiện.
Người phạm tội thực hiện hành vi với nhiều động cơ và mục đích khác nhau. Nếu người phạm tội có hành vi đe doạ, nhưng hành vi đó chỉ là phương pháp để thực hiện một tội phạm khác, nhằm mục đích khác thì không phải là phạm tội đe doạ giết người.
Mặt khách quan: Người phạm tội phải có hành vi làm cho người bị đe doạ lo sợ. Hành vi này chỉ có thể là hành động như bằng lời nói, cử chỉ, cách nhìn, nhưng không phải để thực hiện việc giết người mà chỉ nhằm làm cho người bị đe doạ tưởng thật là mình có thể bị giết như: mài dao, lấy súng lên đạn, viết thư, nhắn tin v.v…Hành vi đe doạ của người phạm tội phải làm cho người bị đe doạ thực sự tin rằng mình sẽ bị giết, tức là có căn cứ để xác định hành vi đe dọa đó sẽ được thực hiện; căn cứ này phát sinh từ phía người bị đe doạ không phải là căn cứ khách quan.
Người phạm tội sau lời đe doạ lại thực hiện một số hành vi như tìm kiếm phương tiện giết người hoặc chuẩn bị phương tiện giết người đồng thời cố ý để cho người bị đe doạ nhìn thấy hoặc người khác nhìn thấy mà người phạm tội biết rằng người này sẽ nói lại cho người bị đe doạ biết nhằm làm cho người bị đe doạ tưởng bị giết thì sẽ cấu thành nên tội đe dọa giết người.
Như vậy, dựa theo phân tích trên, nếu bạn chứng minh được tin nhắn của bạn không mang tính đe dọa giết người mà chỉ là những lời đe dọa thông thường nhằm ép buộc người nhận tin nhắn phải thực hiện việc trả nợ cho bạn thì bạn sẽ không phạm tội đe dọa giết người. Tuy nhiên, khi bị tố cáo bạn có thể bị xử phạt hành chính theo điểm g khoản 3 Điều 66 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP, người nào “cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.
Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Giám đốc Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, HN
Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ [email protected] (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)
Ban Bạn đọc
Mặc dù đã ly dị nhưng anh rể cũ vẫn thường xuyên tìm cách gây sự, đánh đập chị gái tôi vô lý
" alt=""/>Nhắn tin đe dọa người khác có phạm tội?Theo Sở QH-KT TP.HCM, số liệu thống kê cho thấy, từ năm 2004 đến nay, dân số TP.HCM tăng nhanh tại khu vực vành đai nội thành phát triển mới và các huyện ngoại thành, trừ Cần Giờ.
Mức độ tăng dân số tại một số quận, huyện phía Tây và phía Bắc (như Q.Bình Tân, huyện Bình Chánh và Q.12) cao hơn nhóm quận, huyện phía Đông và phía Nam Thành phố.
Khu vực nội thành phát triển mới gồm Q.7, Q.12, Q.Tân Phú, Q.Bình Tân, TP.Thủ Đức. Những quận này có tốc độ tăng dân số nhanh nhất TP.HCM, chủ yếu đến từ dân nhập cư. Trong đó, Q.Bình Tân là nơi tiếp nhận nhiều người nhập cư nhất, xếp sau là Q.12.
Dân số khu vực nội thành hiện hữu (Q.1, Q.3, Q.4, Q.5, Q.6, Q.8, Q.10, Q.11, Q.Phú Nhuận, Q.Gò Vấp, Q.Tân Bình) ít biến động. Các huyện ngoại thành lại có sự gia tăng quy mô dân số lớn, đặc biệt là các huyện Bình Chánh, Hóc Môn và Nhà Bè.
Theo Sở QH-KT, dân số TP.HCM phân bổ cao ở các nơi như Q.7, Q.12, Q.Bình Tân, huyện Bình Chánh, huyện Hóc Môn và huyện Nhà Bè do nhiều yếu tố tác động, như: Giá đất khu vực trung tâm tăng cao; các dự án dự án đầu tư hạ tầng mới; nguồn nhân lực lao động tại các xí nghiệp, nhà máy tăng…
Tốc độ đô thị hoá nhanh, dân cư tập trung đông tại khu vực này tạo thành vành đai bao quanh khu nội thành hiện hữu, gây nhiều áp lực tới chính sách đầu tư phát triển hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật.
So với tổng quy mô dân số theo Đồ án quy hoạch chung TP.HCM đến năm 2025, các quận – huyện và TP.Thủ Đức đề xuất tăng quy mô dân số thêm 5,9 triệu người.
Nếu đáp ứng toàn bộ đề xuất của các quận – huyện thì tổng quy mô dân số toàn Đồ án điều chỉnh quy hoạch chung TP.HCM đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060 là 16,8 triệu người.
Theo số liệu Sở QH-KT tổng hợp, tổng dân số theo các đồ án quy hoạch phân khu trên địa bàn TP.HCM khoảng 11,2 triệu người. Trong khi đó, tổng dân số TP.HCM đến năm 2040, tầm nhìn đến năm 2060 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2021 là 14 triệu người.
Sau khi trừ phần tăng thêm 1,3 triệu người của Đồ án quy hoạch chung TP.Thủ Đức đến năm 2040 và quỹ dự phòng 200.000 người dùng để phân bổ cho các dự án của TP.HCM khi có nhu cầu, quy mô dân số còn lại để phân bổ cho các quận - huyện là 1,32 triệu người.